• Tiếng Việt
  • Tiếng Anh
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Vũ Thị Nhung[1]

Tóm tắt: Thiên tai và biến đổi khí hậu (BĐKH) đang là những thách thức lớn nhất đối với nhân loại, có tác động bất lợi trên nhiều lĩnh vực của đời sống trên cả quy mô toàn cầu, khu vực và quốc gia. BĐKH không những khiến nhiệt độ tăng và nước biển dâng, mà còn khiến cho các thảm họa thiên tai biến động mạnh hơn cả về không gian, thời gian, xảy ra với tần suất nhiều hơn và diễn biến bất thường hơn. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của các thảm họa thiên tai và BĐKH. Trên cơ sở khái quát về tình hình các thảm họa thiên tai và những biểu hiện của BĐKH tại Việt Nam, bài viết tập trung làm rõ những tác động của các hiện tượng này đối với phát triển bền vững ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKH hướng tới phát triển bền vững ở Việt Nam.

Từ khóa: Biến đổi khí hậu; Phát triển bền vững; Tác động; Thiên tai; Việt Nam.

[1] Thạc sĩ, Giảng viên khoa Lý luận chính trị & Khoa học xã hội nhân văn, Học viện An ninh nhân dân, email: vuthinhung.hvannd@gmail.com.

  1. Tổng quan về tình hình thiên tai và biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay

BĐKH “là sự thay đổi của khí hậu do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của hoạt động của con người khiến thành phần của bầu khí quyển toàn cầu biến đổi và làm tăng tính biến động của khí hậu tự nhiên được quan sát trong thời gian so sánh” (Ngân hàng Phát triển châu Á, 2015, tr. 1). Các biểu hiện của BĐKH bao gồm nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên; sự dâng cao mực nước biển do giãn nở vì nhiệt và băng tan; sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển; sự di chuyển của các đới khí hậu trên các vùng khác nhau của trái đất; sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác; sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thủy quyển, sinh quyển và địa quyển. Trong các biểu hiện trên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và mực nước biển dâng thường được coi là hai biểu hiện chính của BĐKH (Nguyễn Thị Lan, 2019).

Theo Báo cáo của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) về Tình trạng Khí hậu Toàn cầu năm 2020, nhiệt độ trung bình toàn cầu từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2020 cao hơn khoảng 1,2°C so với đường nhiệt cơ sở giai đoạn 1850-1900 (đây là mức được sử dụng làm giá trị ước tính của thời kỳ tiền công nghiệp) (WMO, 2021). Năm 2020 là một trong ba năm ấm nhất được ghi nhận trên toàn cầu. Hiện nay, Bắc Cực và Bắc Siberia phải chịu nền nhiệt độ trung bình vô cùng khắc nghiệt với một khu vực rộng lớn cao hơn 3°C so với mức trung bình dài hạn. Sự tăng lên của nhiệt độ trung bình toàn cầu làm cho băng tan ở các vùng cực, trên đỉnh núi cao, cùng với sự giãn nở nước ở các đại dương làm cho mực nước trung bình ở các biển và đại dương trên toàn thế giới tăng cao. Theo ước tính của Ủy ban Liên chính phủ Liên Hợp quốc về BĐKH mực nước biển trung bình trên thế giới tăng 4mm mỗi năm. Các nhà khoa học cũng dự báo, đến năm 2100, mực nước biển có thể dâng cao lên tới 1,3m (dẫn lại Mạnh Hùng, 2020).

Ở Việt Nam, trong thời gian qua, diễn biến của khí hậu cũng có những nét tương đồng với tình hình chung trên thế giới. Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm cả nước tăng khoảng 0,62°C. Nghiên cứu về “Tác động của biến đổi khí hậu tới tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam” của Cơ quan Phát triển quốc tế Đan Mạch, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Đại học Copenhaghen và Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển Thế giới dự báo đến năm 2050, nhiệt độ của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 1,5 đến 2oC (CIEM và DOE, 2012).

Thiên tai và BĐKH luôn được xem là những vấn đề phức tạp, vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa mang tính lâu dài, tác động tới tất cả các vùng, miền, các lĩnh vực, từ tự nhiên đến kinh tế xã hội trên phạm vi toàn cầu và tới tiến trình phát triển bền vững của các quốc gia. Nếu xem xét BĐKH một cách toàn diện, BĐKH ở những mức độ nhất định và những khu vực nhất định cũng có những tác động tích cực. Chẳng hạn, nhiệt độ tăng, nắng nhiều là cơ hội cho phát triển năng lượng mặt trời. Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ tạo cơ hội để thúc đẩy các nước đổi mới công nghệ, phát triển các công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trường và các hoạt động nghiên cứu và phát triển nói chung có liên quan. Ở một số nước ôn đới, khi nhiệt độ tăng lên, sẽ thuận lợi hơn để phát triển nông nghiệp, năng lượng để sưởi ấm cũng được tiết kiệm hơn. Tuy nhiên, những năm gần đây, BĐKH dẫn đến việc các thảm họa thiên tai xảy ra với tần suất cao, cường độ mạnh và diễn biến khó lường, không theo quy luật, không chỉ gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, mà còn gây khó khăn cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên toàn cầu.

Là quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, có Biển Đông thông ra Thái Bình Dương, với hơn 75% dân số sống dọc theo một bờ biển dài hơn 3260km và tập trung tại 2 khu vực đồng bằng (Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long), Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng và chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH. Các hiểm họa, thiên tai liên quan đến khí hậu như bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, sạt lở đất có tần suất ngày càng gia tăng. Những kỷ lục mới vẫn được thiết lập mỗi năm. Các cụm từ “mưa lớn kỷ lục”, “nắng nóng kỷ lục”, “kỷ lục về lũ lụt” đã và đang xuất hiện ngày càng phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng trong những năm gần đây.

Do đặc điểm địa lý, mỗi khu vực có vị trí và địa hình khác nhau, mức độ chịu ảnh hưởng của BĐKH đối với mỗi vùng cũng khác nhau và xuất hiện các loại thiên tai khác nhau.

Với hai vùng đồng bằng, hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long là vùng chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH bởi tình trạng ngập mặn và triều cường do nước biển dâng. Theo tính toán kịch bản BĐKH của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ tăng khoảng 3,4oC, mực nước biển tăng thêm 1m và sẽ có khoảng 40% diện tích đất ở khu vực này bị ngập vĩnh viễn (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).

Đối với khu vực miền núi, ảnh hưởng chính của BĐKH là gây ra các hiện tượng thiên tai mang tính bất thường. Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, BĐKH gây ra mưa lớn và đặc biệt lớn xảy ra thường xuyên trên diện rộng và cục bộ, bất thường hơn về thời gian, tần suất và cường độ. Điều này đã dẫn tới tình trạng lũ lớn, ngập lụt, lũ quét, sạt lở đất, lốc xoáy, mưa đá, xảy ra tập trung chủ yếu vào nửa đêm và sáng sớm, nhanh và nguy hiểm. Ngoài ra, ở khu vực Miền núi Bắc Trung Bộ vào mùa hè, nền nhiệt tăng, cùng với khô hạn dễ dẫn đến cháy rừng, suy giảm đa dạng sinh học. Trong khi đó, vào mùa đông, ở khu vực Miền núi phía Bắc, nhiệt độ giảm sâu gây ra rét đậm, rét hại, tuyết, băng giá xảy ra thường xuyên hơn, thời gian kéo dài hơn và bất thường hơn.

Bên cạnh đó, vùng Duyên hải Trung Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Trung du Bắc bộ và Tây Nguyên cũng chịu rủi ro cao hơn và dễ bị tổn thương hơn do nắng nóng xảy ra với tần suất và cường độ ngày càng gay gắt hơn, dẫn tới tình trạng hạn hán và thiếu nước, tăng hoang mạc hóa ở Việt Nam.

Ngoài ra, hàng năm, Việt Nam phải gánh chịu hàng chục cơn bão và các đợt áp thấp nhiệt đới. Số lượng các cơn bão có cường độ mạnh có xu thế tăng lên. Mùa mưa bão có xu hướng kết thúc muộn hơn trước đây và nhiều cơn bão đổ bộ vào khu vực phía Nam trong những năm gần đây, nhất là khu vực ven biển miền Trung và các vùng biển phía Nam.

-------------------------

Bài đăng trên Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Quản trị rủi to và phát triển đô thị bền vững

(Tham khảo thông bài viết xin liên hệ trực tiếp:

- Bộ phận Thư viện Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng

Địa chỉ: Tầng 8. Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội

Nhân viên Thư viện: Nguyễn Thị Đậm (ĐT: 0986534092, Email: dam.sdin@gmail.com)


Nguồn:Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Quản trị rủi ro và phát triển đô thị bền vững Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết