Đô thị ven biển Việt Nam trong bối cảnh thiên tai và biến đổi khí hậu
Phạm Thị Trầm[1] Lê Hồng Ngọc [2] Đặng Thành Trung[3]
Tóm tắt: Bài viết sử dụng dữ liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới, Tổng cục Thống kê và Bộ Tài nguyên và Môi trường nhằm khái quát những rủi ro thiên tai và tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu(BĐKH) đối với các đô thị ven biển của Việt Nam. Bằng các phương pháp phân tích thống kê và phương pháp bản đồ, chỉ ra các thách thức về phát triển kinh tế - xã hội mà các đô thị ven biển của Việt Nam phải đối mặt trong bối cảnh thiên tai và BĐKH không ngừng diễn biến phức tạp. Kết quả nghiên cứu cho thấy các đô thị ven biển là nơi chịu rủi ro thiên tai và ảnh hưởng trực tiếp của BĐKH với các hiện tượng cực đoan như bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng (NDB) và xâm nhập mặn... Bối cảnh đó đã và đang làm gia tăng tính phơi nhiễm và mức độ dễ bị tổn thương trước thiên tai và BĐKH, tạo ra nhiều thách thức đối với phát triển KTXH của các đô thị ven biển tại Việt Nam.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu; Đô thị ven biển; Thiên tai; Việt Nam.
[1] Tiến sĩ, Nghiên cứu viên, Viện Địa lí nhân văn, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
[2] Thạc sĩ, Nghiên cứu viên, Viện Địa lí nhân văn, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
[3] Thạc sĩ, Nghiên cứu viên, Viện Địa lí nhân văn, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
1 Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.
- Đặt vấn đề
Với lợi thế là quốc gia biển, Việt Nam có tiềm năng lớn phát triển hệ thống đô thịven biển và thực tiễn hình thái đô thị Việt Nam cũng cho thấy phần lớn đô thị Việt Nam đều tập trung ở vùng ven biển.Việt Nam có 28/63 tỉnh thành có đường bờ biển1là nơi sinh sống của 47,9 triệu dân(chiếm 49,1% dân số cả nước, trong đó có 19 triệu dân thành thị chiếm 52,9% dân số thành thị cả nước) với mật độ dân số trung bình 350 người/km2 cao hơn mức trung bình cả nước 295 người/km2; diện tích136.891 km[1][2] (chiếm 41,3% diện tích cả nước) bao gồm36 thành phố (TP) thuộc tỉnh1 và 28 thị xã (TX)2, chiếm 46,2% số TP thuộc tỉnh và 52,9% số TX cả nước (GSO, 2021).
Theo kịch bản BĐKH của Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), khu vực đô thị chịu tác động tiềm ẩn mạnh của BĐKH là khu vực có tốc độ đô thị hóa và phát triển đô thị cao, trong đó có các thành phố ven biển bị ngập nặng như Hải Phòng (5-10% diện tích bị ngập), hành phố Hồ Chí Minh (20% diện tích bị ngập), Cần Thơ (5-10% diện tích bị ngập). Thông tin từ Cục phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) cho thấy, tính đến đầu năm 2021 có khoảng 300 đô thị ven biển chịu tác động rất lớn của BĐKH như tình trạng ngập lụt, xâm nhập mặn, triều cường[3],...
Đô thị biển Việt Nam được định hướng phát triển gắn với các khu kinh tế (KKT) ven biển, là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi nổi và có đóng góp cao cho tăng trưởng.Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), cả nước có 18 KKT ven biển trong đó, khu vực miền Trung có 12 khu, miền Bắc 3 khu và miền Nam có 3 khu với tổng diện tích mặt đất và mặt nước khoảng 845 nghìn ha [7]. Sự phát triển các KKT ven biển cùng với lợi thế về vị trí địa lý của khu vực ven biển cũng chính là động lực quan trọng cho việc phát triển các đô thị ven biển. Hiện nay, các đô thị ven biển đã và đang phát triển theo hướng làm rõ động lực kinh tế của từng khu vực như: du lịch, khai thác dầu khí, hàng hải, nuôi trồng thủy sản,.
Tuy nhiên, các đô thị ven biển đã và đangchịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thiên tai và BĐKH. Những ảnh hưởng tiêu cực này sẽ làm ảnh hưởng tới việc thực hiện mục tiêu chủ động ứng phó với BĐKH, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên trong cải tạo nâng cấp và phát triển đô thị, góp phần từng bước kiểm soát và giảm mức độ ô nhiễm; nâng cao nhận thức, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong điều hành, quản lý phát triển đô thị ứng phó với BĐKH.
------------------------
Bài đăng trên Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Quản trị rủi to và phát triển đô thị bền vững
(Tham khảo thông bài viết xin liên hệ trực tiếp:
- Bộ phận Thư viện Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng
Địa chỉ: Tầng 8. Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội
Nhân viên Thư viện: Nguyễn Thị Đậm (ĐT: 0986534092, Email: dam.sdin@gmail.com)
[1] Bao gồm 1 TP thuộc TP trực thuộc TW (TP Thủ Đức thuộc TP Hồ Chí Minh) và 35 TP thuộc tỉnh
[2] TP Hạ Long, TP Cẩm Phả, TP Móng Cái, TP Uông Bí, TX Đông Triều, TX Quảng Yên (Quảng Ninh), TP Thái Bình (Thái Bình), TP Nam Định (Nam Định), TP Ninh Bình, TP Tam Điệp (Ninh Bình), TP Thanh Hóa, TP Sầm Sơn, TX Bỉm Sơn, TX Nghi Sơn (Thanh Hóa), TP Vinh, TX Cửa Lò, TX Hoàng Mai, TX Thái Hòa (Nghệ An), TP Hà Tĩnh, TX Hồng Lĩnh, TX Kỳ Anh (Hà Tĩnh), TP Đồng Hới, TX Ba Đồn (Quảng Bình), TP Đông Hà, TX Quảng Trị (Quảng Trị), TP Huế, TX Hương Thủy, TX Hương Trà (Thừa Thiên Huế), TP Tam Kỳ, TP Hội An, TX Điện Bàn (Quảng Nam), TP Quảng Ngãi, TX Đức Phổ (Quảng Ngãi), TP Quy Nhơn, TX An Nhơn, TX Hoài Nhơn (Bình Định), TP Tuy Hòa, TX Sông Cầu, TX Đông Hòa (Phú Yên), TP Nha Trang, TP Cam Ranh, TX Ninh Hòa (Khánh Hòa), TP Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận), TP Phan Thiết, TX La Gi (Bình Thuận), TP Bà Rịa, TP Vũng Tàu, TX Phú Mỹ (Bà Rịa - Vũng Tàu), TP Mỹ Tho, TX Cai Lậy, TX Gò Công (Tiền Giang), TP Bến Tre (Bến Tre), TP Trà Vinh, TX Duyên Hải (Trà Vinh), TP Sóc Trăng, TX Vĩnh Châu, TX Ngã Năm (Sóc Trăng), TP Bạc Liêu, TX Giá Rai (Bạc Liêu), TP Cà Mau (Cà Mau), TP Rạch Giá, TP Hà Tiên, TP Phú Quốc (Kiên Giang)