Một số giải pháp nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia trong bối cảnh biến đổi khí hậu
Đảm bảo an ninh nguồn nướcn (ANNN) là một trong những ưu tiên hàng đầu của mỗi quốc gia trên thế giới.Là quốc gia chịu nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nguồn nước chủ yếu phụ thuộc vào các quốc gia láng giềng, Việt Nam cần phải có những giải pháp phù hợp, linh hoạt và cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của ANNN, trong đó các giải pháp quản lý của Nhà nước được cho là cốt lõi, là tiền đề và định hướng cho các giải pháp khác. Cụ thể, một số giải pháp có thể đề cập đến như sau:
1.Hoàn thiện khung pháp lý về khai thác và quản lý tài nguyên nước (QLTNN)
Thứ nhất, hiện nay các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên nước (TNN) chưa thực sự khuyến khích việc sử dụng nước bền vững và tối ưu. Chẳng hạn, giá nước theo quy định để chi trả cho dịch vụ thủy lợi trong Luật Thủy lợi 20171 không phân biệt giữa khu vực khan hiếm và khu vực dư thừa nước. Điều này khiến chính sách ít có tác động khuyến khích việc sử dụng nước tiết kiệm cũng như nỗ lực phân bổ lại nước cho các mục đích năng suất hơn. Do vậy, cần rà soát, điều chỉnh các công cụ kinh tế nhằm thay đổi tự nguyện hành vi của đối tượng sử dụng nước và cho phép người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm sử dụng nước hợp lý.
Thứ hai, chưa có cơ chế chi các khoản thu từ khai thác và sử dụng TNN2 cho các hoạt động bảo vệ và giám sát khai thác nguồn nước nên 100% tiền thu được nộp lại cho ngân sách nhà nước mà không chi trả trực tiếp cho các hoạt động này. Ngoài ra, việc thực thi Nghị định 82/2017/NĐ-CP về Quy định phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong thực tiễn còn một số vướng mắc như: quy định các đối tượng nộp tiền chưa rõ ràng, căn cứ tính tiền trên cơ sở tầng chứa nước khai thác là chưa phù hợp hay một số nội dung liên quan đến việc kê khai, tính, phê duyệt và thu nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước chưa hướng dẫn cụ thể… Do vậy, nhằm hướng tới việc sử dụng TNN bền vững nhất là trong giai đoạn BĐKH làm gia tăng ô nhiễm và căng thẳng nguồn nước, Nhà nước cần xây dựng cơ chế chi cho quản lý TNN cũng như có các điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung các chính sách hiện hành có liên quan cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần tăng nguồn thu để bảo vệ nguồn nước. Cụ thể, đối với chính sách phí ô nhiễm, cần có lộ trình nâng dần càng sớm càng tốt để tạo nguồn kinh phí cho xử lý nước. Về thuế TNN cũng cần đánh giá lại mức thu để không bỏ sót đối với nhiều đối tượng có thể thu và cần thu.
Thứ ba, để giảm mức độ căng thẳng về nguồn nước tại các lưu vực sông (LVS) và đảm bảo sự phối hợp đồng bộ của các Bộ, ngành, địa phương trong giải quyết những vấn đề chung trong khai thác, bảo vệ TNN, cần xây dựng cơ chế điều phối, giám sát trong hoạt động quản lý TNN ở các LVS. Đồng thời, cần tăng cường trao quyền cho các tổ chức quản lý LVS và bảo đảm các tổ chức này đại diện đầy đủ quyền lợi của các bên liên quan. Có như vậy, các tổ chức mới thực sự phát huy sức mạnh, nguồn lực để lập quy hoạch và quản lý tổng hợp LVS giúp giải quyết các vấn đề liên ngành như quản lý dòng chảy, ô nhiễm, lũ lụt và khả năng chống chịu hạn hán nhất là trong bối cảnh BĐKH.
Thứ tư, cần xây dựng hệ thống thông tin TNN quốc gia. Quản lý TNN là một hoạt động dựa trên kiến thức nhưng hiện tại còn gặp khó khăn bởi thiếu thông tin và tiếp cận thông tin. Hiện nay, thông tin, dữ liệu, số liệu điều tra, đánh giá, quan trắc tài nguyên nước còn phân tán và chưa đáp ứng yêu cầu của công tác QLTNN. Các vấn đề mang tính liên ngành vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cơ quan QLTNN với các cơ quan, bộ, ngành liên quan và ủy ban nhân dân các tỉnh. Để củng cố các quy hoạch TNN và quản lý rủi ro, Việt Nam cần tăng cường thông tin TNN, củng cố và mở rộng thu thập dữ liệu về TNN. Việc tạo ra hệ thống sẽ giúp chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành cũng như tăng cường quản lý tổng hợp TNN và củng cố các chính sách về TNN, giúp các cơ quan và các bên liên quan phối hợp hiệu quả hơn, cung cấp thông tin nhất quán về tình hình ANNN và hỗ trợ dự báo hạn hán theo thời gian.
Thứ năm, hiện nay khung pháp lý cho việc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra vẫn còn thiếu và chưa đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp thực thi công tác bảo vệ môi trường. Do vậy, cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động khai thác sử dụng nước, xả thải nước; kiểm soát chặt các hoạt động phòng, chống ô nhiễm suy thoái, cạn kiệt các nguồn nước ngay từ khi triển khai đầu tư các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, cũng cần triển khai thực hiện các đề án kiểm kê TNN, kiểm kê hiện trạng khai thác sử dụng TNN theo Kế hoạch quốc gia về nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp TNN đến 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Cuối cùng, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cần sớm cập nhật, bổ sung kịch bản về BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam đến cấp xã, tiếp tục hoàn chỉnh bản đồ phân bổ nguồn nước mặt, nước dưới đất làm cơ sở để các địa phương, doanh nghiệp, người dân kịp thời cập nhập thông tin liên quan đến BĐKH cũng như tình hình ANNN, để có những biện pháp ứng phó nhằm đảm bảo duy trì nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh.
2.Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về TNN
Năng lực QLTNN ở các cấp được phân quyền còn khá yếu, đặc biệt là dưới cấp tỉnh. Theo đó, hơn 70% ngân sách thủy lợi được quản lý bởi các Ủy ban nhân dân tỉnh chứ không phải là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Do đó, cần tiếp tục kiện toàn, củng cố và tăng cường bộ máy quản lý TNN ở các cấp, nhất là cấp Sở và Phòng TN&MT cấp huyện.
Mặc dù chịu trách nhiệm chính về quản lý TNN song Bộ TN&MT còn thiếu nguồn lực về nhân lực và tài chính để thực hiện những nhiệm vụ lớn về TNN. Chưa có nhiều cán bộ được đào tạo chuyên sâu và thiếu kinh nghiệm về quản lý TNN nên rất khó để có thể thực hiện đầy đủ và tốt các nhiệm vụ hiện nay. Hơn nữa, nhiều địa phương chưa có cán bộ chuyên trách về TNN mà thực tế cán bộ làm công tác khí tượng thủy văn kiêm quản lý TNN. Do vậy, cần đào tạo, nâng cao nhân lực trong các cơ quan quản lý ở các cấp, cả về năng lực chuyên môn phục vụ quản lý TNN, năng lực đàm phán liên quan đến nguồn nước liên quốc gia cũng như năng lực ứng dụng khoa học công nghệ nhằm giúp việc ban hành và thực thi các chính sách về quản lý, sử dụng bền vững TNN nhất là trong bối cảnh TNN chịu tác động nặng nề bởi BĐKH.
Cần có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan về việc quản lý TNN. Hiện các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về TNN còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật mà chưa có một văn bản quy định thống nhất về vấn đề này. Điều này dẫn đến tình trạng có sự chồng chéo trong hoạt động, sự phân công trách nhiệm của các cơ quan. Mặt khác, việc phân cấp thẩm quyền nhiều cho các địa phương có thể gây khó khăn trong việc thống nhất QLNN ở cấp trung ương. Do vậy, cũng cần phải tăng cường phối hợp hiệu quả giữa các Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp, đặc biệt là giữa Bộ TN&MT và các Sở TN&MT.
3.Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo đảm ANNN
Hiện nay, tất cả các con sông chảy qua địa phận Việt Nam có rất ít hoặc không có thỏa thuận xuyên biên giới về các tác động có thể xảy ra khi có cú sốc về thiên tai. Vì vậy, cần thiết lập cơ chế hợp tác tự nguyện giữa các quốc gia đối với các LVS chưa có thỏa thuận phối hợp như LVS Hồng-Thái Bình. Ngoài ra, đối với sông Mekong, dù có thỏa thuận về hợp tác sử dụng nước nhưng hai quốc gia thượng nguồn là Trung Quốc và Myanmar chỉ tham gia Ủy hội sông MeKong với tư cách “Đối tác đối thoại” chứ không phải là thành viên chính thức. Theo đó, cần tăng cường các cơ chế hợp tác giữa các nước thuộc vùng sông Mekong và xác định những cách thức mới để mở rộng đối thoại với tất cả các quốc gia này nhằm ngăn chặn tình trạng thiếu nước trong mùa khô và lũ lụt trong bối cảnh BĐKH làm gia tăng hạn hán cho các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Là vùng đất mà việc đảm bảo ANNN chịu tác động nặng nề nhất từ các hoạt động kiến tạo trên dòng Mekong, Đồng bằng sông Cửu Long cần một cơ chế hợp tác chặt chẽ trên tinh thần tôn trọng, tin cậy, chia sẻ lợi ích giữa các quốc gia thành viên. Đồng thời, tích cực tạo sự đồng thuận trong việc định hướng mô hình phát triển bền vững lưu vực Mekong và trong cộng đồng ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Cùng với đó, để những cam kết trong các Hiệp ước khai thác nước giữa các quốc gia láng giềng thực thi có hiệu quả, cần đề cao vai trò của hợp tác cùng phát triển. Theo đó, các quốc gia thượng nguồn cần tính toán đến các tác động tiêu cực đối với các quốc gia khác khi triển khai kế hoạch phát triển của mình.
------------------------------------
Ghi chú:
Giá nước xác định chỉ dựa trên chi phí tài chính của nước thủy lợi (gồm chi phí quản lý, vận hành, bảo trì, chi phí khấu hao, chi phí quản lý và một phần lợi nhuận cho nhà cung cấp).
Gồm phí cung cấp nước sạch, phí bảo vệ môi trường với nước thải và chất thải rắn, phí cấp quyền khai thác TNN, phí dịch vụ thủy lợi
Trích nguồn:NCIF
Tác giả: Ban Các vấn đề Xã hội và Môi trường
Cập nhật lúc: 27/07/2021 10:41:49 AM