• Tiếng Việt
  • Tiếng Anh
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Vị trí của trí thức trong cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay

Từ khóa: Trí thức; Nguồn nhân lực chất lượng cao; Quản lý nguồn nhân lực; Việt Nam

     1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và các bộ phận cấu thành

     Kinh tế tri thức, cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hóa cùng những biểu hiện tích cực và tiêu cực của chúng trong thế giới đương đại đang cho thấy những biến chuyển to lớn của thời đại. Những tác nhân này đang tác động ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện đến tất cả các quốc gia trên thế giới về cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Hội nhập một cách toàn diện vào sân chơi toàn cầu, đón đầu những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ trong sản xuất để chuẩn bị nhanh chóng cho sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức là con đường tất yếu mà bất cứ quốc gia nào cũng phải tuân theo, trong đó có Việt Nam. Việt Nam bước vào hội nhập với điều kiện phát triển thấp kém về cả trình độ và nhịp độ. Muốn hội nhập thành công để bắt kịp nhịp độ phát triển của thế giới, chúng ta cần huy động tổng thể các nguồn lực trong nước và tận dụng các nguồn lực bên ngoài, trong đó nguồn nội lực là quan trọng nhất. Trong hệ thống nguồn lực nội sinh, thể chế, quan hệ sản xuất tiên tiến, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, kinh tế thị trường,… là những yếu tố có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển hội nhập của mỗi quốc gia bên cạnh các nguồn lực khác như nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực hay nguồn lực tài chính. Tuy nhiên, các yếu tố trên không thể thể hiện được sức mạnh của mình nếu không có sự điều khiển, thực hiện của nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.

      Nguồn nhân lực chất lượng cao không còn là khái niệm mới mẻ, nó được bàn đến nhiều về phương diện lý luận, và thực tế đã trở thành một trong những chính sách quan trọng được thực thi rộng rãi trên toàn xã hội. Trong phạm vi bài viết, tác giả không bàn đến nội dung khái niệm mà chỉ thừa nhận như là khái niệm công cụ để tiếp cận các vấn đề trọng tâm khác. Nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu là bộ phận tinh túy nhất của nguồn nhân lực, là lực lượng lao động được đặc trưng bởi trình độ học vấn và chuyên môn cao; có năng lực vận dụng sáng tạo những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại nhằm tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trong quá trình lao động, sản xuất; có phẩm chất tốt, có đạo đức nghề nghiệp.

     Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng ta tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nguồn nhân lực chất lượng cao là “… các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao”[1], đến Đại hội lần thứ XI, Đảng ta nhấn mạnh đến vai trò của “đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn”[2] có thể thấy, nguồn nhân lực chất lượng cao được cấu thành từ bốn bộ phận cơ bản: đội ngũ các nhà quản lý, hoạch định chính sách; đội ngũ doanh nhân; đội ngũ trí thức, và đội ngũ lao động lành nghề.

     Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là bộ phận hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đây là bộ phận có vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của mọi quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, cán bộ là gốc của cách mạng, thành bại của cách mạng đều do cán bộ tốt hoặc kém. Chính bộ phận những người vừa có năng lực chuyên môn, có tầm nhìn trong quản lý xã hội với tinh thần, trách nhiệm sẽ dẫn dắt dân tộc đi theo con đường phát triển nhanh hay chậm. Thực tiễn phát triển của nhân loại cho thấy, lịch sử là kết quả đấu tranh của quần chúng nhân dân, nhưng những bước ngoặt lịch sử sẽ diễn ra nhanh hay chậm, lộ trình phát triển của mỗi dân tộc là dài hay ngắn lại được quyết định bởi đường lối, chính sách được hoạch định từ đội ngũ những người lãnh đạo của đất nước. Khi những người lãnh đạo, các nhà quản lý đất nước đặt lợi ích của dân tộc, của cộng đồng lên trên, với những nhận thức đúng đắn về quy luật vận động khách quan của thời đại sẽ xây dựng hệ thống đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp với xu thế khách quan và điều kiện phát triển của dân tộc, khi đó quốc gia sẽ phát triển nhanh chóng. Ngược lại, khi dân tộc được lãnh đạo bởi bộ phận những nhà lãnh đạo, những người quản lý kém về tài năng, lại thiếu phẩm chất đạo đức cần thiết sẽ làm cho dân tộc đó mãi trong tình trạng tụt hậu, kém phát triển. Vì vậy, xây dựng được một đội ngũ các nhà quản lý vừa có năng lực chuyên môn cao, có tầm nhìn chiến lược trong quản lý, lại vừa có tâm với nhân dân, với đất nước là việc quan trọng, có tầm ảnh hưởng đến vận mệnh của mỗi dân tộc.

     Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ hay đội ngũ trí thức là bộ phận quan trọng hợp thành nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong bất kỳ thời đại nào trí thức đều có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Tùy vào bản chất giai cấp mà nó mang theo, tùy vào quan điểm của nhà cầm quyền mà đội ngũ trí thức thể hiện vai trò khác nhau. Trong thời đại ngày nay, trí thức là lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng nhất quyết định đến năng suất lao động xã hội. Trí thức không chỉ thể hiện vai trò trên một số khía cạnh cụ thể mà vai trò của đội ngũ này được thể hiện ở tất cả các phương diện của đời sống kinh tế - xã hội; từ trong hoạt động sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần đến tái sản xuất ra bản thân con người, từ lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến an ninh quốc phòng. Quốc gia nào xây dựng được đội ngũ trí thức, đội ngũ nhân tài phát triển thì quốc gia ấy sẽ nắm được chìa khóa quyền lực trong tương lai. Trung Quốc là một ví dụ, họ coi tài nguyên con người, nhất là nhân tài là nguồn tài nguyên có tính căn bản nhất, có tiềm năng khai thác và khai thác có giá trị cao nhất, đồng thời, là lực lượng tạo nên sức cạnh tranh quốc gia với lợi thế về dân số mà họ có hiện nay.

     Đội ngũ lao động lành nghề là bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề cao trên tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất xã hội, là những người lao động giỏi có khả năng ứng dụng nhanh và linh hoạt những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao. Đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề chính là lực lượng lao động cơ bản vận hành, sử dụng công cụ sản xuất, trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, cung ứng các dịch vụ có hàm lượng trí tuệ đạt chất lượng theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, là lực lượng lao động có năng lực trí tuệ để tiếp thu được công nghệ tiên tiến, đồng thời phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, giải pháp hữu ích có giá trị cao trong quá trình lao động sản xuất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất, đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Với xu thế trí thức hóa công nhân mạnh mẽ hiện nay, đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề ngày càng trở thành lực lượng đông đảo trong xã hội, góp phần quan trọng cho tiến bộ xã hội nói chung.

      Đội ngũ doanh nhân là những người trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quản lý tài sản được giao (hoặc của bản thân) làm ra nhiều lợi nhuận, thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển. Đây là lực lượng chủ yếu làm ra của cải vật chất và giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, góp phần chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ. Chính các doanh nhân thực hiện khâu quan trọng nhất trong nền sản xuất vật chất là đưa các thành tựu trong khoa học ứng dụng vào sản xuất, biến các phát minh, sáng chế của trí thức thành các sản phẩm hàng hóa hiện thực, đồng thời đưa sản phẩm hàng hóa đến thị trường tiêu dùng. Sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào, phần không nhỏ là do năng lực của đội ngũ này chi phối. Đội ngũ doanh nhân càng phát triển thì đóng góp của họ đối với xã hội càng lớn, không chỉ qua khối lượng của cải vật chất họ tạo ra mà còn góp phần tạo nên diện mạo của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập và mở cửa. Trong bối cảnh xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường sâu rộng hiện nay, những mục tiêu kinh tế đặt ra chỉ trở thành hiện thực khi đất nước có đội ngũ doanh nhân phát triển. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào tầm nhìn, sự linh hoạt, nhạy bén của đội ngũ doanh nhân. Chính vì vậy, việc xây dựng đội ngũ doanh nhân vừa đông đảo về số lượng lại vừa phát triển về chất lượng, tôn vinh họ là nhiệm vụ quan trọng mà Đảng ta đã quán triệt và đang thực thi nhiều chính sách trong thực tiễn.

     Cả bốn bộ phận trên nằm trong mối quan hệ chi phối, ràng buộc, ảnh hưởng trực tiếp đến nhau và ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của cả xã hội nói chung. Mỗi bộ phận đều có vai trò riêng, có tầm ảnh hưởng riêng, nhưng trong tiến trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay thì trí thức là đội ngũ có vai trò quyết định nhất, quyết định đến xu hướng và bản chất của cả nền sản xuất xã hội.

    2. Trí thức và vị trí của trí thức trong cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao

    Để xác định được vị trí của trí thức trong cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao cần xuất phát từ vai trò của đội ngũ này đối với sự phát triển của xã hội.

    Hiện nay, trong nước và trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về trí thức. Mỗi quan niệm đều dựa trên một hoặc một số tiêu chí nào đó để xác định trí thức. Có người nhấn mạnh hoặc dựa trên tiêu chí về bằng cấp, có người dựa trên tiêu chí về sự sáng tạo, tư duy độc lập trong lao động, có người lại cho rằng trí thức phải là những người có khả năng cống hiến, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội,… Theo chúng tôi, để có cái nhìn toàn diện về trí thức không thể chỉ dựa trên một hoặc một số tiêu chí riêng lẻ nào mà cần phải xây dựng một hệ các tiêu chí. Bởi việc quá nhấn mạnh đến một tiêu chí nào đó, coi nó như là căn cốt của người trí thức sẽ dẫn đến những quan niệm cực đoan hoặc phiến diện trong việc nhận diện trí thức. Nghị quyết Trung ương bảy Khóa X (2008) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”[3]. Đây được coi là quan niệm có tính chất định nghĩa về khái niệm trí thức mà lần đầu tiên Đảng ta đưa ra. Quan niệm này đã bao quát những đặc trưng và tiêu chí cơ bản nhất của trí thức Việt Nam hiện nay.

    Mỗi thời đại khác nhau trí thức có những đóng góp khác nhau cho xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán đánh giá cao vai trò, những cống hiến to lớn của người trí thức đối với tiến trình cách mạng Việt Nam, từ trong kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc đến thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển hội nhập hiện nay. Vai trò của trí thức được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, từ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục đến an ninh quốc phòng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, Khóa X khẳng định: “Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới”.

     Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhiều trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đa số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước”[4].

     Lãnh đạo quá trình hội nhập trong xu thế hình thành ngày càng rõ nét nền kinh tế tri thức hiện nay, Đảng ta xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường”[5]. Việc xác định con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, từng bước phát triển kinh tế tri thức là cần thiết và có tính khả thi. Trên thực tế, những năm gần đây, nước ta đã xuất hiện những mô hình phát triển mới dựa vào tri thức. Đó là những mô hình sản xuất mà tri thức khoa học, công nghệ đóng góp lớn trong cơ cấu giá trị gia tăng, ứng dụng các công nghệ cao như những cánh đồng hoa ở Đà Lạt cho thu hoạch 500 - 600 triệu đồng/ha, những cánh đồng lúa với năng suất bình quân 56,3 tạ/ha,…[6]

     Xuất hiện nhiều ngành, lĩnh vực và các khu sản xuất công nghệ cao với sự tham gia ngày càng nhiều vai trò của tri thức khoa học. Tài sản vô hình đóng vai trò ngày càng quan trọng, trở thành nguồn vốn chủ yếu của nền kinh tế. Tài nguyên trí tuệ ấy được sáng tạo, tái tạo và phát triển do đội ngũ trí thức. Xu thế phát triển mới đó đang đặt người trí thức vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Đội ngũ trí thức và lao động có tay nghề cao sẽ quyết định tốc độ phát triển xã hội và định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới, là nguồn lực hiền tài và là nguyên khí của quốc gia nên sẽ quyết định tương lai của đất nước.

    Xét trong nội bộ nguồn nhân lực chất lượng cao, nó được cấu thành với bốn yếu tố cơ bản nằm trong mối quan hệ thống nhất với nhau tạo thành trụ cột cho nền kinh tế như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, để hoạch định một chiến lược trọng tâm phát triển hiệu quả nguồn nhân lực thì “đã đến lúc cần khẳng định hoặc nhấn mạnh thêm rằng trong nguồn nhân lực thì đội ngũ trí thức, tầng lớp chính khách và doanh nhân là ba bộ phận quan trọng nhất, quyết định chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng phát triển của đất nước. Cụ thể hơn, về nội dung, đội ngũ trí thức ở đây bao gồm cả lực lượng lao động có tay nghề cao - có người còn gọi là tầng lớp kỹ nghệ gia”[7]. Ba bộ phận này “thống nhất với nhau sẽ tạo nên một cỗ xe tam mã có sức mạnh quyết định đến tốc độ và chất lượng phát triển của bất cứ quốc gia nào. Bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, không có được cỗ xe tam mã này, dù chỉ một tầng lớp nào đó đứng ngoài hoặc quay lưng lại, thì tốc độ và chất lượng phát triển chắc chắn sẽ có vấn đề. Sự vận động của xã hội sẽ gặp nhiều trục trặc và trở ngại”[8]. Sự thống nhất của ba tầng lớp này trong việc phát triển quốc gia, dân tộc là yếu tố có tính quyết định, có thể lôi cuốn được toàn xã hội vào một quy trình sản xuất thống nhất trên phạm vi quốc gia, thực hiện quá trình phát triển đất nước. Trong thời đại ngày nay, ba tầng lớp này là lực lượng tiên phong và chủ đạo trong việc đáp ứng những đòi hỏi của thời đại, nó chính là đầu tàu của sự vận động của xã hội hiện đại.

Tuy nhiên, thực tế phát triển của các quốc gia cũng như lý luận phát triển nói chung cho thấy, không phải các bộ phận của nguồn nhân lực đều có vai trò như nhau mà mức độ tác động của chúng đối với sự phát triển của xã hội là khác nhau. Trong mối quan hệ thống nhất chặt chẽ với các nhà quản lý và tầng lớp doanh nhân, đội ngũ trí thức đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trò then chốt.

     Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có trách nhiệm chính khi quyết định những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng đến các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… được quyền định đoạt, giải quyết các công việc, xử lý các tình huống diễn ra thuộc phạm vi, chức trách, nhiệm vụ của tổ chức, của các cấp, các ngành phù hợp với pháp luật hiện hành. Sự thành bại của sự nghiệp phát triển đất nước phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất và quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý của họ. Nhưng thực chất, việc đề ra đường lối lãnh đạo đất nước, giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước như thế nào thì không phải là sự sáng tạo của riêng các nhà quản lý. Một mặt, đường lối lãnh đạo đất nước được hoạch định dựa trên sự tham vấn ý kiến đóng góp của các nhà khoa học trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là các trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Đội ngũ trí thức đã tham gia một cách tích cực và hiệu quả trong việc tư vấn, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đã trực tiếp đề xuất và tổ chức thực hiện các mục tiêu quốc gia trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, đội ngũ trí thức đã tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về phát triển kinh tế, quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ các trí thức, các nhà khoa học đã tham gia vào hệ thống chính trị, trở thành các nhà quản lý xã hội. Với năng lực chuyên môn của mình, bộ phận này đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và trình độ quản lý của Nhà nước. Do vậy, có thể khẳng định các nhà quản lý, lãnh đạo có thể thực hiện thành công hay không nhiệm vụ lãnh đạo đất nước, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội là phụ thuộc rất lớn vào khả năng nắm bắt, tham vấn của đội ngũ trí thức trong xã hội. Nếu đường lối phát triển đất nước được xây dựng dựa trên những tham vấn đúng đắn thì sẽ lãnh đạo thành công đất nước, một mặt nhà cầm quyền giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình đối với đất nước, mặt khác đất nước sẽ phát triển trên mọi mặt, vị thế của quốc gia sẽ ngày càng được nâng lên trên trường quốc tế. Ngược lại, khi hệ thống đường lối, chính sách được tham vấn từ những quan điểm phiến diện, không phù hợp với quy luật khách quan thì đất nước sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Điều này được chứng minh qua nhiều giai đoạn lãnh đạo của Đảng đối với đất nước ta. Do vậy, quan điểm nhất quán của Đảng trong việc coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam là quan điểm đúng đắn, cần phát huy cụ thể hơn nữa trong điều kiện hiện nay.

     Tầng lớp doanh nhân như đã phân tích ở trên có vai trò hết sức quan trọng đối với tiến trình vận động xã hội. Tầng lớp doanh nhân là cầu nối giữa nghiên cứu, phát minh, sáng chế với sản xuất, đồng thời là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Việc tìm kiếm lợi nhuận tối đa thúc đẩy các doanh nhân tích cực tìm kiếm và đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực, các thị trường tiềm năng nhất. Điều đó làm cho tư bản xã hội tự phát di chuyển từ nơi có lợi nhuận thấp đến nơi có lợi nhuận cao, sản xuất hàng hóa diễn ra thông suốt đáp ứng quy luật cung - cầu hàng hóa trên thị trường. Trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu, quốc gia nào thiếu đội ngũ doanh nhân phát triển thì quốc gia ấy không thể cạnh tranh trên trường quốc tế. Sự thâm nhập, chi phối và thống lĩnh thị trường kinh tế của các nước phát triển hiện nay luôn bắt đầu từ sự xâm nhập và chi phối của các công ty lớn của họ. Vì vậy, xây dựng được một đội ngũ doanh nhân tài năng sẽ kích thích nền kinh tế phát triển nhanh chóng, tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên, bản thân đội ngũ doanh nhân không thể tạo ra sức cạnh tranh của nền sản xuất khi thiếu những phát minh, những sáng chế, những lý thuyết khoa học cần thiết. Bởi muốn sản xuất và kinh doanh thành công một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó trước hết cần phải có người phát minh ra nó. Khi xã hội có hệ thống phát minh, sáng chế phong phú, đi trước thời đại thì hệ thống sản xuất mới thực sự có hiệu quả. Đành rằng, trong thời đại ngày nay, quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh chóng, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là vai trò của các nhà khoa học giảm đi. Thực chất, một mặt, việc nhập khẩu những dây chuyền sản xuất mới từ nước ngoài về luôn cần những nhà khoa học am hiểu và có thể vận hành chúng trong sản xuất, cần đội ngũ công nhân lành nghề thực hiện; mặt khác, nền sản xuất xã hội không thể đi mua hoàn toàn những phát minh từ bên ngoài để áp dụng cho nước mình vì chi phí rất cao (đó là chưa bàn đến các hệ lụy khác về cả kinh tế và xã hội) mà bản thân quốc gia đó cũng cần phải có những phát minh, sáng chế của mình, phù hợp với đặc thù của quốc gia mình. Do đó, tầng lớp doanh nhân sẽ không thể thực hiện quá trình sản xuất, kinh doanh thành công mà thiếu sự đóng góp của đội ngũ trí thức khoa học công nghệ. Hiện nay, bản thân các doanh nhân sẽ ngày càng nâng cao trình độ hiểu biết của mình để đáp ứng yêu cầu nắm bắt thị trường kinh doanh; đồng thời các trí thức trong xã hội cũng tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao đời sống của bản thân và gia đình. Xu hướng trí thức hóa doanh nhân và doanh nhân hóa trí thức đó sẽ làm cho hai bộ phận này gắn bó chặt chẽ với nhau, làm cho trình độ sản xuất xã hội ngày càng phát triển.

     Tóm lại, xét trong mối quan hệ với sự phát triển nói chung, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế dựa trên nền kinh tế tri thức hiện nay, trí thức là bộ phận có vai trò quan trọng nhất, thúc đẩy quá trình hội nhập diễn ra nhanh chóng, sớm đưa đất nước thực hiện thành công quá trình phát triển rút ngắn. Xét trong phạm vi nội bộ cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao, trí thức cũng là bộ phận đứng ở vị trí trung tâm. Các bộ phận khác chỉ có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình khi và chỉ khi dựa trên nền tảng của đội ngũ trí thức phát triển. Chính vị trí quan trọng, vai trò to lớn đó của trí thức mà Đại hội lần thứ XI của Đảng ta đã xác định: “Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”[9]. Muốn xây dựng được một đội ngũ trí thức phát triển vững mạnh xứng tầm với vị trí, vai trò của nó đối với sự phát triển hiện nay cần có một hệ thống đồng bộ các giải pháp phát triển trí thức, bao gồm các giải pháp về đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.”[10] Đối với đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ nói riêng, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học”[11].

     Thực hiện nhất quán những quan điểm, giải pháp đó trong thực tế sẽ sớm hình thành đội ngũ trí thức vững mạnh, hình thành nên nguồn nhân lực phát triển, đáp ứng mục tiêu “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[12] mà Đảng ta đã đề ra. 

Tài liệu tham khảo

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
  5. Lương Đình Hải (2012), “Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao”, Tạp chí Nghiên cứu con người, Số 3.
  6. Lương Đình Hải (2012), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, Số 6.
  7. Đặng Hữu (2015), Một số nội dung trong báo cáo tổng hợp Đề tài “Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta đến năm 2020 - 2030”, Tài liệu Hội thảo, ngày 26/5.

 

* ThS.; Khoa Khoa học cơ bản, trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 100.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 130.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 82.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Sđd, Tr. 83 - 84.

[5]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 75.

[6] Đặng Hữu (2015), Một số nội dung trong báo cáo tổng hợp Đề tài “Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta đến năm 2020 - 2030”, Tài liệu Hội thảo, ngày 26/5, Tr. 9.

[7]Lương Đình Hải (2012), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”, Tạp chí Nghiên cứu Con ngườisố 6.

[8] Lương Đình Hải (2012), Sđd.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 130.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Tr. 163.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd,  Tr. 122.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd,  Tr. 372.    


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan