Bám sát nhiệm vụ, giải pháp để đạt được các mục tiêu của giai đoạn 2021-2025
(MPI) - Ngày 22/7/2021, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, thay mặt Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trình bày Báo cáo thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020; dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra |
Tổng thể giai đoạn 5 năm 2016-2020 đã đạt những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật
Theo đó, Ủy ban Kinh tế nhất trí với nhiều nội dung theo Báo cáo của Chính phủ, sau 4 năm đầu thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch, năm 2020 dịch bệnh Covid-19 bùng phát đã tác động nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội. Với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; năm 2020 vừa tập trung phòng, chống dịch, vừa duy trì, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; về tổng thể giai đoạn 5 năm 2016-2020 đã đạt những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
Công tác điều hành của Chính phủ tiếp tục có nhiều đổi mới, tập trung xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội khó khăn, thể hiện sự quyết liệt, năng động, nhất quán, sâu sát. Môi trường đầu tư, kinh doanh; thủ tục hành chính; điều kiện kinh doanh; kiểm tra chuyên ngành được cắt giảm thực chất. Xếp hạng môi trường kinh doanh tăng 20 bậc, năng lực cạnh tranh toàn cầu tăng 10 bậc.
Kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn; các cân đối lớn được bảo đảm; lạm phát được kiểm soát. Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,78%/năm; năm 2020 là một trong số ít quốc gia có mức tăng trưởng dương. Xây dựng thể chế, hệ thống pháp luật và cơ chế điều hành ngày càng đồng bộ, hoàn thiện và bao quát hơn. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; thực hiện 3 đột phá chiến lược đạt một số kết quả tích cực; năng suất lao động tăng bình quân 5,89%/năm, cao hơn mức 4,3% của giai đoạn 2011-2015 và vượt mục tiêu đề ra 5%; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp đã có sự tiến bộ rõ rệt, tăng 45,72% so với mức bình quân 32,84% của giai đoạn 2011-2015. Cơ cấu ngành công nghiệp , nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng và tích cực; xây dựng nông thôn mới vượt mục tiêu.
Khu vực kinh tế tư nhân có bước phát triển; các lĩnh vực khoa học và công nghệ, lao động, việc làm đạt một số kết quả nhất định. Tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm mạnh từ 41,6% năm 2016 xuống 33,1% năm 2020; tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng; khoảng cách bất bình đẳng giới được thu hẹp dần; chính sách, chế độ ưu đãi với người có công; an sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm; giảm nghèo đi vào thực chất hơn; thu nhập bình quân đầu người tăng 8,5%/năm.
Bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực được dự báo tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen; dịch bệnh Covid-19 với những biến chủng mới có khả năng lây lan cao hơn, tác động lâu dài đến nền kinh tế thế giới. Nhiều vấn đề xã hội, môi trường như già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo, cạn kiệt tài nguyên, thiên tai, biến đổi khí hậu diễn ra bất thường, bảo vệ độc lập, chủ quyền còn nhiều thách thức cũng có thể tác động lớn đến thực hiện các mục tiêu tăng trưởng.
Ủy ban Kinh tế cơ bản đồng tình với mục tiêu tổng quát và các mục tiêu chủ yếu cho giai đoạn 2021-2025 như trong Báo cáo của Chính phủ; nhất trí với các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 5 năm nhưng chỉ tiêu hằng năm cần phấn đấu đạt cao hơn. Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị trong điều hành Chính phủ cần quan tâm một số chỉ tiêu cụ thể về mức phấn đấu vào nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN về môi trường đầu tư kinh doanh, về năng lực cạnh tranh; về chi phí logistics so với GDP, tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân và tỷ lệ nội địa hóa để có định lượng thực hiện trong 5 năm tới. Đồng thời, báo cáo rõ về phương pháp xác định đối với chỉ tiêu kinh tế số so với GDP để phục vụ cho việc triển khai và giám sát.
Toàn cảnh Phiên họp |
09 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025
Trên cơ sở đó, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban kinh tế cơ bản đồng tình với các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 như đã nêu trong Báo cáo, đề nghị Chính phủ quán triệt bám sát Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đồng thời, quan tâm 09 nhóm nội dung.
Một là, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế trong những năm đầu; bứt phá phát triển trong những năm tiếp theo. Quy định cụ thể thời hạn, lộ trình thực hiện để phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ quan trọng như các quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia; xử lý dứt điểm cơ cấu lại các ngân hàng mua bắt buộc, ngân hàng yếu kém; xử lý dứt điểm các dự án thua lỗ, kém hiệu quả thuộc ngành công thương, các dự án đầu tư hạ tầng thuộc ngành giao thông, đường sắt đô thị; rà soát, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật phục vụ các ngành kinh tế; đưa vào vận hành an toàn các dự án nguồn điện và lưới điện truyền tải theo đúng tiến độ; sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập, các công ty nông, lâm nghiệp. Triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển. Trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; tiếp tục thực hiện 3 đột phá chiến lược; hoàn thiện hệ thống pháp luật; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi; chú trọng công tác tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật; khắc phục triệt để việc nợ đọng văn bản; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về ngân sách nhà nước và thuế; quản lý chặt chẽ các quỹ ngoài ngân sách; cắt giảm mạnh chi thường xuyên, nhất là chi hành chính.
Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý đất đai, thị trường bất động sản, quản lý tài chính cho các đô thị lớn; quản lý, sử dụng nguồn thu; cơ chế kiểm soát vốn và quản trị doanh nghiệp nhà nước; quản lý, sử dụng hiệu quả tài chính công, tài sản công; các quy định pháp lý về hộ kinh doanh. Tổng kết, đánh giá cơ chế xã hội hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công lập. Hoàn thiện chính sách thương mại; khai thác có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật về đầu tư công, làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư. Xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản; cơ cấu lại nợ, xử lý nợ xấu phát sinh từ các dự án BOT, BT giao thông. Xây dựng khung chính sách, pháp luật hướng tới chính phủ số; đưa vào khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia. Xây dựng, thử nghiệm, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao; hoạt động ngân hàng và xử lý nợ xấu.
Ba là, tập trung nguồn lực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng, chống dịch, đẩy nhanh thực hiện, triển khai chiến lược vắc-xin. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân số gắn với xây dựng gia đình hạnh phúc. Xử lý dứt điểm tồn đọng về xác nhận, công nhận người có công với cách mạng. Bảo vệ, chăm sóc, phát triển hệ thống dịch vụ y tế cho người cao tuổi. Tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về trẻ em; định hướng thông tin cho thanh niên, trẻ em trên môi trường mạng.
Bốn là, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức sáng tạo của mỗi cá nhân; đổi mới quản lý hoạt động văn hoá, quan tâm xây dựng các chuẩn mực văn hoá, đạo đức con người Việt Nam, phát triển công nghiệp văn hoá. Xây dựng, triển khai Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam. Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm nông nghiệp; xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu thuộc nhóm 03 nước dẫn đầu ASEAN.
Năm là, đầu tư xây dựng, phát triển, quản lý quy hoạch đô thị theo hướng đồng bộ, thông minh, xanh, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên và nguồn lực, hài hoà giữa bảo tồn và phát triển. Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế gắn với xây dựng nông thôn mới và xu hướng phát triển đô thị hóa nông thôn. Tăng cường năng lực hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu; thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững theo Chương trình Nghị sự 2030 của Liên Hợp quốc; thực hiện theo lộ trình cắt giảm phát thải vào năm 2030 theo cam kết.
Sáu là, hoàn thiện thể chế và cơ chế quản lý giáo dục theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao; nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ… Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh; khuyến khích hợp tác công tư, đầu tư tư nhân, cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh theo yêu cầu; phát triển mô hình bác sỹ gia đình; tăng cường đào tạo, đào tạo lại, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới.
Bảy là, đổi mới mạnh mẽ lề lối, phương thức làm việc các cơ quan hành chính nhà nước; xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng. Phấn đấu đến năm 2025 thuộc nhóm 04 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng Chính phủ điện tử. Thúc đẩy phát triển, nghiên cứu, ban hành quy chế phối hợp điều hành các vùng, liên vùng; phát huy vai trò động lực của các vùng kinh tế trọng điểm, các cực tăng trưởng, tạo ra các vùng động lực mới. Kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và phê duyệt quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính; mô hình tổ chức chính quyền đô thị trên phạm vi cả nước; đánh giá kết quả thực hiện các chính sách đặc thù cho các địa phương; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Sớm triển khai thực hiện cải cách chính sách, chế độ tiền lương. Cụ thể hóa quy định pháp luật về bảo vệ cán bộ đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Tám là, tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xử lý nghiêm các vụ án kinh tế, tham nhũng; ngăn chặn các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà người dân và doanh nghiệp; tăng cường đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm; khắc phục những hạn chế, tác động tiêu cực của mạng xã hội, đối phó hiệu quả với những thách thức an ninh sinh học, an ninh phi truyền thống. Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng quy định; phòng ngừa, đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Chín là, phát huy các lợi thế chính trị, đối ngoại để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Làm tốt công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài và tranh thủ tối đa nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài. Quan tâm phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng biên giới, vùng biển, hải đảo. Theo dõi sát diễn biến tình hình biển Đông, kiên trì, kiên quyết bảo vệ các lợi ích chính đáng của Việt Nam./.
Minh Trang
Bộ Kế hoạch và Đầu tư